Thủ tục giữ lại quyền sử dụng đất sau khi chuyển nhượng

16:39 |

Nhà tôi có mảnh đất ruộng rộng khoảng 450m2 nay có công ty tới mua để mở xưởng sản xuất với thời hạn sử dụng là 50 năm.

Vậy tôi muốn hỏi sau 50 năm thì mảnh đất đó ai sẽ được quyền sử dụng? Gia đình tôi hay nhà nước? Nếu là gia đình tôi thì phương thức như thế nào để sau 50 năm nhà tôi lại được quyền sử dụng? Xin chân thành cảm ơn!

Trả lời:

ảnh minh họa



1. Căn cứ Điều 705 Bộ luật Dân sự quy định về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là sự thoả thuận giữa các bên tuân theo các điều kiện, nội dung, hình thức chuyển quyền sử dụng đất được Bộ luật này và pháp luật về đất đai quy định, theo đó người sử dụng đất (gọi là bên chuyển quyền sử dụng đất) chuyển giao đất và quyền sử dụng đất cho người được chuyển nhượng (gọi là bên nhận quyền sử dụng đất), còn người được chuyển nhượng trả tiền cho người chuyển nhượng”.

Theo Điều 713 Bộ luật Dân sự thì người nhận chuyển nhượng đất có các quyền “Yêu cầu bên chuyển quyền sử dụng đất giao cho mình toàn bộ giấy tờ hợp pháp về quyền sử dụng đất; Yêu cầu bên chuyển quyền sử dụng đất giao đất đủ diện tích, đúng hạng đất, đúng loại đất, đúng vị trí, đúng tình trạng như đã thoả thuận trong hợp đồng; Được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất được chuyển nhượng; Được sử dụng đất theo đúng mục đích, đúng thời hạn”.

Như vậy, sau khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì Công ty nói trên sẽ được đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và có toàn quyền sử dụng theo nhu cầu và mục đích của họ. Và gia đình bạn đã chấm dứt quyền sử dụng đất kể từ thời điểm chuyển giao.

Về thời hạn sử dụng đất, căn cứ Điều 67, Luật Đất đai năm 2003 thì sau khi hết thời hạn sử dụng đất người sử dụng đất phải giao đất cho Nhà nước hoặc có thể yêu cầu Nhà nước xem xét gia hạn sử dụng đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng. Theo đó, không có cơ sở pháp lý để gia đình bạn có thể lấy lại quyền sử dụng mảnh đất trên ngay cả khi mảnh đất trên hết thời hạn sử dụng.

2. Căn cứ Điều 714 Bộ luật Dân sự quy định về hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất thì “Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất là sự thoả thuận giữa các bên tuân theo các điều kiện, nội dung, hình thức chuyển quyền sử dụng đất được Bộ luật này và pháp luật về đất đai quy định, theo đó bên cho thuê chuyển giao đất cho bên thuê để sử dụng trong một thời hạn, còn bên thuê phải sử dụng đất đúng mục đích, trả tiền thuê và trả lại đất khi hết thời hạn thuê”.

Như vậy, nếu gia đình bạn muốn giữ lại quyền sử dụng đất (sau thời hạn cho thuê) thì gia đình bạn nên tiến hành ký kết hợp đồng cho thuê đất với Công ty nói trên.
Công ty Luật Thiên Bình
(Theo LandToday)

Nguồn: batdongsan.com.vn

Chia đất khi ly hôn

16:37 |

Hỏi: Trước đây cha mẹ chồng tôi có sang tên cho vợ chồng tôi 400 m2 đất. Nay vợ chồng tôi ly hôn thì tôi có được chia đất không?

Mai Lan (tohchc@yahoo...)
ảnh minh họa
Trả lời:



Theo khoản 2 Điều 97 Luật Hôn nhân và Gia đình, việc chia quyền sử dụng đất chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện như sau:

- Đối với đất nông nghiệp trồng cây hằng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của hai bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết. Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng.

- Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất ở… thì được chia đôi nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản…

- Việc chia quyền sử dụng đối với các loại đất khác được thực hiện theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật dân sự.

Khi ly hôn, diện tích đất thuộc quyền sử dụng chung của vợ chồng chị sẽ được phân chia theo cách thức trên.
LS NGUYỄN ĐÌNH HÙNG
(Theo PL TPHCM)


Nguồn: batdongsan.com.vn

Thừa kế đất theo pháp luật

16:35 |

Hỏi: Bà ngoại tôi có sáu người con và bà đang đứng tên hai miếng đất. Tại thời điểm này hay khi bà ngoại mất mà không viết di chúc thì mẹ tôi có được phần đất nào không? (vothuyanh@...)

Trả lời:

ảnh minh họa


Nếu đất trên thuộc quyền sử dụng của bà ngoại chị (không phải là đất của hộ gia đình) thì việc mẹ chị có được chia đất vào thời điểm này hay sau khi bà ngoại chị mất tùy thuộc vào quyết định cụ thể của người bà. Muốn cho mẹ chị một phần đất, người bà cần làm thủ tục tặng cho, hoặc muốn để thừa kế đất cho mẹ chị thì người bà có thể lập di chúc nêu rõ nội dung này.

Trường hợp người bà mất không có di chúc thì đất đó thuộc quyền sử dụng chung của sáu người con và theo nguyên tắc thì mẹ chị được hưởng 1/6 diện tích đất.
LS LÊ BỬU THÀNH
(Theo PL TPHCM)


Nguồn: batdongsan.com.vn

Cấp chủ quyền cho phần xây thêm

16:34 |

Hỏi: Hiện tôi muốn mua một căn nhà nhưng giấy tờ sổ hồng ghi phần xây dựng 25,9m2 trong khi phần đất ở lại ghi diện tích 32,7m2. Tôi kiểm tra thì thấy nhà đã xây đủ hết diện tích. Tôi không hiểu sao lại có sự chênh lệch trên?

Mong được giải đáp. Cảm ơn.
chi quynh (quynhchi001@... )

Trả lời:
ảnh minh họa



Theo thư của ông tôi hiểu ông kiểm tra nhà đã xây dựng hết diện tích 32,7m2 trong khi giấy tờ sổ hồng thì ghi phần xây dựng 25,9m2. Trường hợp như thế có các khả năng:

(i) Căn nhà đã xây hết diện tích nhưng khi xem xét cấp giấy chứng nhận, Nhà nước chỉ công nhận diện tích xây dựng là 25,9m2 do phần còn lại là phần đất không được phép xây dựng theo quy hoạch của cơ quan nhà nước đã phê duyệt.

Trong trường hợp này, phần xây dựng vi phạm không được cấp giấy chứng nhận và buộc phải tháo dỡ khi Nhà nước thực hiện quy hoạch;

(ii) Căn nhà trước đây chỉ xây dựng 25,9m2 trên một thửa đất có diện tích 32,7m2 và đã được cấp giấy chứng nhận. Sau đó chủ nhà xây dựng thêm hết toàn bộ diện tích thửa đất (không có giấy phép xây dựng).

Trường hợp này chủ nhà hiện tại phải tiến hành làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu phần nhà ở được xây dựng thêm, sau đó mới tiến hành bán cho ông.

Phần nhà ở được xây thêm có thể được Nhà nước cấp giấy chứng nhận, nếu:

Có giấy tờ xác nhận của UBND cấp xã về nhà ở đã được xây dựng trước ngày 1-7-2006 và đảm bảo các điều kiện:

- Nhà ở không có tranh chấp;

- Được xây dựng trước khi có quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng hoặc phải phù hợp quy hoạch đối với trường hợp xây dựng sau khi có quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch điểm dân cư nông thôn theo quy định của pháp luật.

Trường hợp nhà ở xây dựng từ ngày 1-7-2006 phải có giấy tờ xác nhận của UBND cấp xã về nhà ở không thuộc trường hợp phải xin giấy phép xây dựng, không có tranh chấp và đáp ứng điều kiện về quy hoạch như trường hợp nhà ở xây dựng trước ngày 1-7-2006 nêu trên;

(iii) Phá dỡ nhà cũ (đã có giấy chứng nhận) xây lại toàn bộ diện tích thửa đất nhưng chưa tiến hành xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà (diện tích nhà mới).

Trường hợp này, trước khi bán nhà chủ nhà cũ phải tiến hành xin cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với căn nhà xây dựng mới. Nếu việc xây dựng nhà mới có giấy phép thì sẽ được cấp giấy chứng nhận như nội dung giấy phép. Trường hợp xây nhà mới không có giấy phép thì việc xem xét cấp giấy chứng nhận tương tự như mục (ii) đã đề cập.

Thân ái chào ông.
LS HUỲNH VĂN NÔNG
(Theo Tuổi trẻ)


Nguồn: batdongsan.com.vn

Quyền về tài sản sau khi đã mua nhà theo NĐ61

16:33 |

Hỏi: Bố tôi thuê nhà của Nhà nước từ năm 1960 đến 1990, lúc đó gia đình tôi có 8 người đều có hộ khẩu cùng ở một nhà, sau đó anh em chúng tôi xây dựng gia đình ở riêng và chuyển hộ khẩu đi nơi khác.

Mẹ tôi chết, một chú em chuyển sang ở riêng ở phần đất lưu không và có hộ khẩu riêng. Còn lại vợ chồng tôi và một người chị vẫn ở lại phần nhà thuê, sau khi bố tôi mất. Nhà nước có chủ trương bán nhà theo NĐ 61 tôi đã bỏ tiền ra mua nhà, chị tôi cũng được mang tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất. Nay người em trai chồng tôi cho rằng phần nhà mà tôi mua theo NĐ 61 có phần tài sản thừa kế của chú ấy, chị chồng tôi tặng cho chúng tôi phần tài sản (quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà) có được không? Yêu cầu của người em tôi có đúng không?
Ngô Thị Hằng (Hoàng Mai)
ảnh minh họa
- Trả lời:




Bố bạn là người thuê nhà của Nhà nước chứ không phải là tài sản riêng của bố, mẹ bạn vì vậy khi bố mẹ bạn chết đi hợp đồng thuê nhà không thể coi là tài sản thừa kế, bố bạn đứng tên hợp đồng ban đầu khi bố mẹ bạn chết đi thì những người thuê thực tế tiếp tục cử người ký tiếp hợp đồng với cơ quan quản lý nhà, ở đây anh em bạn đã chuyển đi nơi khác không còn nhu cầu thuê tiếp nữa mà chỉ còn có vợ chồng bạn và một người chị là còn ở lại nhà thuê và có nhu cầu thuê tiếp.

Bạn đã bỏ tiền ra mua nhà theo NĐ 61, căn cứ theo điều 2, điều 5 của NĐ 61 thì Nhà nước thực hiện bán nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước cho người đang thuê, ở đây đối tượng đang thuê được xác định trong hộ khẩu thực tế tại nơi ở đang thuê. Cơ quan Nhà nước đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sở hữu nhà cho bạn và chị bạn, nay chị bạn đã làm thủ tục tặng cho bạn, tính từ thời điểm trong giấy chứng nhận đã được đính chính do người chị đã tặng cho thì nhà mua theo NĐ 61 là tài sản thuộc về bạn, người em không có quyền can thiệp vào tài sản của bạn.

Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất lại mang tên chồng bạn nhưng tài sản này được xác định là tài sản chung của vợ chồng bạn, nếu chồng bạn không chứng minh được là tài sản riêng của anh ấy, vì tài sản này được xác lập trong thời kỳ hôn nhân nên cho dù được ghi tên chồng bạn nó vẫn là tài sản chung của vợ chồng bạn (Điều 27 - Luật Hôn nhân và Gia đình).
Luật sư Trương văn An
Văn phòng LS Phúc Thọ
(Theo ANTĐ)


Nguồn: batdongsan.com.vn

Việc mua bán nhà bị tòa tuyên vô hiệu?

09:58 |
Hỏi: Năm 2009 tôi có mua một mảnh đất (chuyển quyền sở hữu vốn góp), do là đất dự án nên chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (theo quy định của dự án, sau khi xây nhà xong mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất).
Việc mua bán chỉ có giấy viết tay và có người làm chứng là ông tổ trưởng tổ dân phố chứ không có công chứng hoặc xác nhận của UBND phường. Có giấy ủy quyền của người bán cho tôi được làm các giấy tờ, thủ tục liên quan đến mảnh đất, được công chứng viên chứng thực. Kèm theo phiếu thu nộp tiền cho ban quản lý dự án (bản gốc). Nay tôi ra ban quản lý dự án xin phép làm nhà trên mảnh đất đó thì ban quản lý dự án cho biết mảnh đất tôi mua hiện đang có quyết định của cơ quan thi hành án thành phố không cho xây nhà hoặc chuyển nhượng cho người khác. Xin luật sư vui lòng tư vấn giúp tôi:

Vì là đất dự án nên chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên việc mua bán chỉ có giấy viết tay, kèm theo giấy ủy quyền như vậy có giá trị pháp lý gì không? Lô đất tôi mua tháng 11/2009 nhưng quyết định của cơ quan thi hành án ký ngày 21/6/2011 như vậy có đúng không?

Tôi có thể nộp đơn khởi kiện người bán ra tòa án dân sự được không? Nếu được thì thủ tục khởi kiện như thế nào? Nộp án phí ở đâu, thủ tục nộp thế nào? Nộp ngay khi khởi kiện hay chờ tòa án thụ lý hồ sơ xong mới nộp?

(binhfcp@... )

Trả lời




Theo quy định tại Điều 106, Luật đất đai 2003 được sửa đổi bổ sung năm 2009 thì người sử dụng đất chỉ được chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:

- Có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;

- Đất không có tranh chấp;

- Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;

- Trong thời hạn sử dụng đất.

Hơn nữa, theo quy định tại Điểm b, Khoản 1, Điều 119 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai (đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27-1-2006) thì hợp đồng hoặc giấy tờ khi người sử dụng đất thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn.

Như vậy, việc nhận chuyển nhượng đất của bạn được thực hiện khi chính người chuyển nhượng cũng không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là đã vi phạm Điều 106 Luật đất đai. Hơn nữa, hợp đồng chuyển nhượng đất lại không được công chứng hoặc chứng thực theo như quy định dẫn chiếu ở trên là vi phạm về mặt hình thức khi thực hiện giao dịch.

Cần nói thêm, việc bạn có giấy ủy quyền của người bán để bạn làm các giấy tờ, thủ tục liên quan đến mảnh đất, được công chứng viên chứng thực và kèm theo phiếu thu nộp tiền cho ban quản lý dự án (bản gốc) là không có giá trị gì về mặt pháp lý vì giao dịch chuyển nhượng của bạn ngay từ đầu đã không hợp pháp. Chính vì việc mua bán của bạn không được pháp luật công nhận nên quyết định của cơ quan thi hành án ký ngày 21-6-2011 đối với diện tích đó là đúng với quy định của pháp luật.

Từ những dẫn chiếu trên có thể thấy giao dịch chuyển nhượng đất của bạn sẽ bị tòa án tuyên vô hiệu khi các bên có tranh chấp. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu là khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.

Bạn có thể làm đơn kiện kèm theo tài liệu liên quan lên tòa án có thẩm quyền (có thể là tòa án nơi có bất động sản), yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Sau khi tòa án nhận đơn thì trong 5 ngày làm việc tòa án sẽ tiến hành thụ lý vụ việc (nếu thuộc thẩm quyền của tòa án) và tòa án sẽ thông báo cho bạn về việc nộp tiền tạm ứng án phí. Tòa án sẽ thụ lý vụ án tính từ thời điểm bạn nộp biên lai nộp tiền tạm ứng án phí.

Trân trọng,

Luật sư Lê Thị Hoài Giang


Nguồn: batdongsan.com.vn

Giải quyết tranh chấp mua bán đất bằng giấy tay

09:53 |
Hỏi: Năm 1992, ông A có mua nửa công đất nền nhà của ông B, nửa phần còn lại ông B bán cho ông C. Trong lúc mua bán, có nhân chứng ở ấp, xã chứng.


Năm 1997 ông A hỏi ông B đưa sổ đỏ để tách ra, ông B nói đất chưa có sổ đỏ và bảo cứ ở đi khi nào có sổ đỏ sẽ đưa. Sau đó, khi ông A đi làm sổ đỏ thì ở xã cho biết miếng đất đã có sổ đỏ, do ông C đứng tên.

Ông A đã yêu cầu ông C đưa sổ đỏ để tách ra nhưng ông C không chịu. Ông đã làm tờ tường trình nhờ chính quyền giải quyết nhưng tới nay vẫn chưa nhận được lời giải thích nào từ chính quyền. Bây giờ ông A phải làm sao? Mong được luật sư tư vấn.

Nguyễn Thị Út (hellomylove953@...)

Trả lời:


Về việc tranh chấp đất đai:

Căn cứ Điều 136 Luật Đất Đai, khi tranh chấp về quyền sử dụng đất, nếu đương sự đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì do Tòa án giải quyết.

Căn cứ Điều 135 Luật Đai, khi các bên có tranh chấp về đất đai, nếu không tự hòa giải được, thì gởi đơn đến UBND cấp xã, phường nơi có đất tranh chấp để tiến hành hòa giải. Thời hạn hòa giải là 30 ngày làm việc, kể từ ngày UBND cấp xã nhận được đơn.

Như vậy, thẩm quyền giải quyết tranh chấp sẽ thuộc về tòa án nhân dân nơi có đất bị tranh chấp, nhưng trước khi tòa án thụ lý giải quyết tranh chấp, các bên phải thông qua thủ tục hòa giải tại UBND cấp xã. Do đó, bà có thể liên hệ với UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp để yêu cầu địa phương tiến hành thủ tục hòa giải cho các bên.

Kết quả hòa giải phải được lập thành biên bản và cấp cho các bên liên quan, để các bên liên quan có căn cứ yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp. Sau khi có kết quả hòa giải giải quyết tranh chấp, nếu các bên không tự giải quyết được, bà có thể nộp đơn khởi kiện tại tòa án nhân dân có thẩm quyền nơi có đất để xem xét giải quyết tranh chấp.

Về yêu cầu khởi kiện, bà có thể yêu cầu tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông C do cấp giấy chứng nhận không đúng với người sử dụng đất hoặc có thể làm đơn đề nghị cơ quan cấp giấy chứng nhận thu hồi giấy chứng nhận đã cấp nếu việc cấp giấy chứng chứng nhận cho ông C là trái pháp luật.

Trân trọng,

Luật sư Phạm Đình Sơn
Công ty Luật TNHH Phạm Đình & Cộng Sự


Nguồn: batdongsan.com.vn

Đất sử dụng ổn định là như thế nào?

16:11 |

Hỏi: Năm 1992, ông Nguyễn Văn Bình (Long An) được mua hóa giá 1 căn nhà thuộc khu Cơ khí - Máy kéo đã giải thể của huyện (mới tính giá trị nhà chưa tính giá trị sử dụng đất) và sử dụng 168 m2 đất xung quanh.
Đồng thời ông đã xây dựng thêm trên khu đất 148m2 nhà và công trình phụ. Gia đình ông Bình ở ổn định từ đó đến nay, không có tranh chấp.
Hiện nay, khu vực gia đình ông Bình đang ở nằm trong quy hoạch Khu dân cư vượt lũ. Ông Bình hỏi, diện tích đất của gia đình ông có được coi là đất sử dụng ổn định không? Khi thu hồi thì gia đình có được đền bù không?
Ông Bình là con liệt sĩ, vậy gia đình có thuộc đối tượng được ưu tiên tái định cư tại chỗ không?
Đất sử dụng ổn định
                             Đất sử dụng ổn định khi Nhà nước thu hồi thì sẽ được bồi thường
Trả lời:
Điều 21 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai đã quy định về căn cứ xác định việc sử dụng đất ổn định, do vậy nếu đất của gia đình ông Bình sử dụng phù hợp với các căn cứ nêu tại Điều 21 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP thì đất đó được xác định là đất sử dụng ổn định.
Trường hợp diện tích đất của gia đình ông Bình đủ điều kiện theo quy định tại Điều 75 Luật Đất đai năm 2013, Điều 13 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thì được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Gia đình ông Bình sẽ được bố trí tái định cư tại chỗ nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 86 Luật Đất đai năm 2013.
Trích nguồn:batdongsan.com.vn


Chuyển nhượng đất hỗ trợ có được không?

16:06 |

Hỏi: Gia đình tôi thuộc diện dân tộc thiểu số, hoàn cảnh khó khăn, 8 năm trước được chính quyền cấp cho mấy trăm mét vuông đất, vừa làm nhà ở và canh tác.
Nay tôi muốn bán mảnh đất đó nhưng địa phương lại không đồng ý làm thủ tục. Việc giải quyết của chính quyền địa phương như thế đúng hay sai?
Chủ thể được Nhà nước giao đất theo chính sách hỗ trợ chỉ được chuyển nhượng quyền sử dụng đất sau 10 năm kể từ ngày có quyết định giao đất.

Trả lời:
Việc một số hộ gia đình dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn, nhất là ở vùng Tây Nguyên, không có đất ở, đất sản xuất là một thực tế. Để giúp bà con có cuộc sống ổn định, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ, trong đó có việc giao đất. Nhờ đó nhiều hộ gia đình đã có cuộc sống ổn định, vươn lên thoát nghèo.
Tuy nhiên, cũng có người sau khi được Nhà nước hỗ trợ giao đất lại bán đi, nên cuộc sống tiếp tục lâm vào tình trạng khó khăn. Để ngăn ngừa tình trạng này, mục đích là giúp bà con có cuộc sống ổn định nên tại khoản 1, Điều 40, Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, quy định điều kiện chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân đồng bào dân tộc thiểu số sử dụng đất do được Nhà nước giao đất theo chính sách hỗ trợ, như sau:
Hộ gia đình, cá nhân đồng bào dân tộc thiểu số sử dụng đất do được Nhà nước giao đất theo chính sách hỗ trợ của Nhà nước chỉ được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất sau 10 năm kể từ ngày có quyết định giao đất nếu được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận không còn nhu cầu sử dụng do chuyển khỏi địa bàn xã, phường, thị trấn nơi cư trú để đến nơi khác hoặc do chuyển sang làm nghề khác hoặc không còn khả năng lao động.
Mặt khác, khoản 2, Điều 40, Nghị định 43/2014/NĐ-CP cũng quy định: tổ chức, cá nhân không được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân đồng bào dân tộc thiểu số sử dụng đất do được Nhà nước giao đất theo chính sách hỗ trợ của Nhà nước mà không thuộc trường hợp được chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất theo quy định nêu trên.
Theo trình bày của bạn, thì bạn mới được giao đất 8 năm, không đáp ứng được điều kiện về thời gian (sau 10 năm kể từ ngày có quyết định giao đất) nên chính quyền địa phương không làm thủ tục xác nhận cho bạn chuyển nhượng là đúng.
Trích nguồn:batdongsan.com.vn


Mua nhà cần chuẩn bị giấy tờ và làm thủ tục gì?

16:03 |

Hỏi: Tôi muốn mua một căn nhà có sổ hồng đàng hoàng. Nhưng do trình độ và hiểu biết hạn chế, tôi không biết cần phải làm thủ tục giấy tờ mua bán như thế nào cho đúng pháp luật và không bị bên bán lừa gạt.
Người mua nhà cần chuẩn bị đầy đủ giấy tờ và thực hiện các thủ tục pháp luật quy định. Ảnh minh                                                                                họa
Trả lời:
Điều kiện về chuyển quyền sở hữu nhà
Khoản 1, Điều 91 và Điều 92 Luật Nhà ở năm 2005, cụ thể:
Khoản 1, Điều 91 quy định:
“a) Có Giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà ở theo quy định của pháp luật;
b) Không có tranh chấp về quyền sở hữu;
c) Không bị kê biên để thi hành án hoặc để chấp hành quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
- Điều 92 quy định:
“1. Bên bán, cho thuê, cho thuê mua, tặng cho, đổi, thế chấp, cho mượn, cho ở nhờ, uỷ quyền quản lý nhà ở phải có các điều kiện sau đây:
a) Là chủ sở hữu nhà ở hoặc người đại diện theo quy định của pháp luật về dân sự;
b) Cá nhân có năng lực hành vi dân sự; tổ chức bán, cho thuê nhà ở phải có chức năng kinh doanh nhà ở, trừ trường hợp tổ chức bán nhà ở không nhằm mục đích kinh doanh.
2. Bên mua, thuê, thuê mua, đổi, nhận tặng cho, mượn, ở nhờ, được uỷ quyền quản lý nhà ở là tổ chức, cá nhân; nếu là cá nhân trong nước thì không phụ thuộc vào nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và phải có năng lực hành vi dân sự; nếu là người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì phải thuộc diện được sở hữu, được thuê nhà ở tại Việt Nam theo quy định của Luật này; nếu là tổ chức thì không phụ thuộc vào nơi đăng ký kinh doanh.”
Hình thức Hợp đồng chuyển quyền sở hữu nhà
Theo Điều 93, Luật Nhà ở Hợp đồng về nhà ở phải có chứng nhận của công chứng hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp huyện đối với nhà ở tại đô thị, chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã đối với nhà ở tại nông thôn.
Đăng ký cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở
Điều 93: Bên mua, bên nhận tặng cho, bên đổi, bên được thừa kế nhà ở có trách nhiệm nộp hồ sơ để được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở theo trình tự quy định tại Điều 16 của Luật này, trừ trường hợp bên bán nhà ở là tổ chức có chức năng kinh doanh nhà ở hoặc các bên có thỏa thuận khác.
Với các quy định nêu trên, bạn căn cứ  thực hiện để giao dịch được phù hợp quy định pháp luật.
Trích nguồn:batdongsan.com.vn


Giải quyết tranh chấp ranh giới đất như thế nào?

15:56 |

Hỏi: Hai hộ chúng tôi có nhà, đất từ trước năm 1975, nhà tôi xây nhà năm 1984, hộ sát nhà xây năm 1990, cả hai được cấp sổ hồng (cấp 4) năm 2000.
Nhà tôi nằm trong hẻm cụt, cổng nhà tôi được xây ngay tại góc tường của hai nhà bên cạnh là bà Phụng và bà Nga (vẫn còn mốc là góc tường của hai nhà hàng xóm này chưa thay đổi hiện trạng). Phía tiếp giáp với nhà tôi, tôi không cho bà Phụng trổ cửa sổ. Ranh giới giữa nhà tôi và bà Phụng chính là bức tường nhà bà Phụng. Đường luồn vào nhà tôi nằm lọt thỏm trong cổng đoạn 1,44m chỉ có duy nhất nhà tôi sử dụng.
Trong biên bản xác định ranh giới thửa đất cán bộ địa chính ghi: ''Đoạn cổng nhà 1,44m của chủ hộ, đoạn 13,49m, ranh giới để trống, cột mốc hai đầu làm ranh giới'', của bà Phụng ghi: ''ranh giới để trống, mốc hai đầu xác định, đã thống nhất giữa hai bên làm ranh giới ''. Vậy mà, khi cấp sổ đỏ lại công nhận ranh giới nhà tôi và bà Phụng cách nhau 20cm, khiến nhà tôi xây lầu 3 tầng có phần không gian nằm trên phần  20cm khoảng độ 0,7cm.
Tuy nhiên UBND quận yêu cầu nhà tôi phải đập bỏ phần không gian 0,7cm nằm trong khoảng 20cm đó có đúng không?  Mong luật sư tư vấn. Xin chân thành cám ơn.
Tranh chấp ranh giới đất vì cấp sổ đỏ không đúng với biên bản tứ cận được giải quyết theo quy định                                                                     của pháp luật.
Trả lời:
Theo thông tin bạn cung cấp hiện tại hai gia đình có tranh chấp về ranh giới thửa đất và cả 2 gia đình đều có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Thông tin bạn trình bày chưa rõ nên chúng tôi tư vấn về giải quyết tranh chấp như sau:
Luật Đất Đai 2013, Điều 202 Hòa giải tranh chấp đất đai:
1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.
2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải.
3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.
4. Việc hòa giải phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có xác nhận hòa giải thành hoặc hòa giải không thành của Ủy ban nhân dân cấp xã. Biên bản hòa giải được gửi đến các bên tranh chấp, lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp.
Điều 203: Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:
1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết
Trích nguồn:batdongsan.com.vn


Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được sở hữu nhà tại Việt Nam

15:52 |

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (sau đây gọi tắt là doanh nghiệp) được hoạt động kinh doanh bất động sản tại Việt Nam thông qua hình thức đầu tư xây dựng nhà ở để bán, cho thuê hoặc cho thuê mua.
Tùy thuộc vào ngành nghề hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà pháp luật có những quy định khác nhau về điều kiện, thời hạn, hình thức sở hữu, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sở hữu nhà ở tại Việt Nam.
- Trường hợp doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở để bán, sau khi hoàn thành việc xây dựng theo dự án, chủ đầu tư được quyền bán nhà ở này cho các đối tượng thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo quy định của Luật Nhà ở và Luật Kinh doanh Bất động sản. Người mua nhà ở của doanh nghiệp sẽ được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi tắt là Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở). Chủ đầu tư có trách nhiệm làm thủ tục đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở cho người mua trong thời hạn 50 ngày kể từ ngày bàn giao nhà ở cho người mua nhà, trừ trường hợp người mua nhà tự nguyện làm thủ tục.
- Trường hợp doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở để cho thuê tại Việt Nam thì doanh nghiệp sẽ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở đối với nhà ở đó. Thời hạn được sở hữu nhà ở là thời hạn quy định trong Giấy chứng nhận đầu tư và được ghi rõ trong Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở.
Khi Giấy chứng nhận đầu tư hết hạn, doanh nghiệp có trách nhiệm bàn giao nhà ở để cho thuê và số lượng nhà ở chưa bán hết mà không thuộc diện phải phá dỡ cho UBND cấp tỉnh nơi có nhà ở đó. Chủ tịch UBND cấp tỉnh ra quyết định xác lập sở hữu nhà nước và giao cho doanh nghiệp có chức năng quản lý nhà ở thuộc sở hữu nhà nước quản lý và sử dụng nhà ở đó theo quy định của pháp luật.
            Doanh nghiệp nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo quy định của pháp luật.
Lưu ý, đối với doanh nghiệp không thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam hoặc thuộc diện được sở hữu căn hộ chung cư trong dự án phát triển nhà ở thương mại, khi được tặng cho hoặc được thừa kế nhà ở không phải là căn hộ chung cư trong dự án phát triển nhà ở thương mại, doanh nghiệp chỉ được hưởng giá trị của nhà ở đó sau khi trực tiếp hoặc ủy quyền cho người khác bán nhà ở này khi có đầy đủ giấy tờ theo quy định.
- Đối với doanh nghiệp không hoạt động kinh doanh bất động sản, khi có nhu cầu về nhà ở cho những người đang làm việc tại doanh nghiệp đó ở thì doanh nghiệp được mua và sở hữu một hoặc một số căn hộ chung cư trong dự án phát triển nhà ở thương mại  và không thuộc khu vực hạn chế hoặc cấm người nước ngoài cư trú, đi lại tại Việt Nam.
Doanh nghiệp chỉ được sử dụng nhà ở vào mục đích để ở, không được dùng để cho thuê, làm văn phòng hoặc sử dụng vào mục đích khác.
Thời hạn sở hữu nhà ở tại Việt Nam của doanh nghiệp tương ứng với thời hạn ghi trong Giấy chứng nhận đầu tư của doanh nghiệp, bao gồm cả thời gian được gia hạn. Thời hạn sở hữu được tính từ ngày doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và được ghi trong Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở. Trường hợp khi hết hạn đầu tư hoặc khi giải thể, phá sản thì nhà ở của doanh nghiệp sẽ được xử lý theo quy định của pháp luật về đầu tư, pháp luật về phá sản và các quy định khác của pháp luật Việt Nam.
Đặc biệt lưu ý, trường hợp doanh nghiệp được tặng cho hoặc được thừa kế nhà ở khác thì chỉ được chọn sở hữu căn hộ chung cư trong dự án phát triển nhà ở thương mại. Nếu nhà ở không phải là căn hộ chung cư trong dự án phát triển nhà ở thương mại thì doanh nghiệp được quyền tặng cho hoặc bán nhà ở đó cho các đối tượng thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam để hưởng giá trị.
Trích nguồn:batdongsan.com.vn


Có được xin cấp sổ đỏ trước khi chia thừa kế?

09:31 |

Hỏi: Gia đình ông bà nội tôi sinh được 4 người con. Năm 2003 ông nội tôi mất, sau đó năm 2009 bà nội tôi cũng mất, để lại tài sản là một lô đất 1.000m2.

Ông tôi trước đó không để lại di chúc gì cả, nhưng năm 2004 bác tôi lại có sổ đỏ chứng nhận quyền sử dụng đất có diện tích 600m2 trong tổng số đất 1.000m2 đó. Năm 2009 bà nội tôi mất cũng chỉ để lại giấy viết tay dặn chia đều (đất) cho 4 anh em.

Xin hỏi, bây giờ bố tôi có thể yêu cầu tòa án chia lại toàn bộ 1.000m2 đất đó cho 4 người con được không? Các thủ tục như thế nào? Nguyễn Văn Hoạt (nguyenhoatnd@...)

Trả lời

Ảnh minh họa

Để có thể yêu cầu tòa án chia thừa kế đối với toàn bộ quyền sử dụng đất 1.000m2, bố bạn phải chứng minh được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà bác của bạn được cấp đối với 600m2  trong tổng số 1.000m2 nêu trên đã được cấp không đúng quy định của pháp luật.

Trường hợp không chứng minh được hoặc nếu bác của bạn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cơ sở văn bản tặng cho của ông bà nội bạn, thì bố của bạn sẽ khó có cơ sở để yêu cầu tòa án chia thừa kế đối với phần diện tích 600m2 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bác bạn.

Ngoài ra, thông tin bạn cung cấp cũng không nói rõ về nguồn gốc thửa đất, như thửa đất có được ông bà nội bạn tạo lập hợp pháp hay không, có các loại giấy tờ chứng minh quyền sử dụng như bằng khoán điền thổ, các giấy tờ của chế độ cũ cấp… hay không.

Vì vậy, để có thể yêu cầu tòa án chia di sản thừa kế đối với 1.000m2 đất trên hoặc 400m2 còn lại nếu bác của bạn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với 600m2 đất nêu trên, thửa đất yêu cầu chia thừa kế phải được xem là di sản thừa kế thuộc quyền sử dụng của ông bà nội bạn để lại.

Việc xác định quyền sử dụng đất là di sản được thực hiện như sau:

1. Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật đất đai năm 1987, Luật đất đai năm 1993, Luật đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.

2. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 điều 50 của Luật đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 1-7-2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.

3. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại mục 1 và mục 2 nêu trên nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ôtô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế thì cần phân biệt các trường hợp sau:

a. Trong trường hợp đương sự có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì tòa án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.

b. Trong trường hợp đương sự không có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của UBND cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất, thì tòa án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất.

Đồng thời phải xác định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để UBND cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai.

c. Trong trường hợp UBND cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết rõ việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất không được phép tồn tại trên đất đó, thì tòa án chỉ giải quyết tranh chấp về di sản là tài sản trên đất đó.
Luật sư Nguyễn Văn Hậu
(Theo TTO)


Nguồn: batdongsan.com.vn

Vẫn chưa cấp quyền sử dụng đất vì không nộp đủ tiền

09:30 |

Hỏi: Năm 2010, UBND TP Đà Nẵng có quyết định về việc quy hoạch xây nhà cho các gia đình quân đội tại khu C, Bộ tham mưu Quân khu 5 (P.Hòa Thuận Tây, Q.Hải Châu).

Theo đó, mỗi gia đình nộp từ 90-110 triệu đồng để nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nếu nộp trong thời gian từ 29-5 đến 29-7-2011 thì được giảm 10% số tiền. Tuy nhiên, gần một năm trôi qua, dù đã nộp đủ tiền nhưng các hộ gia đình tại đây vẫn chưa nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất? Nhóm tập thể quân nhân khu C, P.Hòa Thuận Tây, Q.Hải Châu

Trả lời

Ảnh minh họa

Ông Đinh Vui (trưởng phòng khai thác quỹ đất, Công ty Quản lý và khai thác đất Đà Nẵng) trả lời:

Ngày 15/2/2011, UBND TP Đà Nẵng đã có quyết định về việc quy định giá đất để thu tiền giao quyền sử dụng đất tại khu C Bộ tham mưu Quân khu 5 với diện tích 8.226m2 có đơn giá là 1,294 triệu đồng/m2.

Đến ngày 2/6/2011, công ty đã ký hợp đồng giao đất có thu tiền sử dụng đất với 64 gia đình quân nhân tại khu C với diện tích 5.767m2. Đến nay, phần diện tích đất còn lại của khu C là 2.458m2, là đất giao thông công cộng để xây dựng cơ sở hạ tầng tương đương 3,181 tỉ đồng vẫn chưa được nộp tiền. Công ty đã gửi công văn báo cáo UBND TP và được trả lời: đề nghị Bộ tư lệnh Quân khu 5 nộp tiền sử dụng đất phần diện tích đất còn lại trước khi TP lập thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình tại đây.

Thượng tá Lê Châu Sinh (trưởng phòng hậu cần, Bộ tham mưu Quân khu 5) trả lời:

Trước nhu cầu về nhà ở của cán bộ quân nhân, Bộ tham mưu Quân khu 5 đã có văn bản xin Bộ Quốc phòng về việc chuyển đổi diện tích đất quốc phòng tại khu C để xây dựng nhà ở và chung cư, hoàn toàn không vì mục đích kinh doanh nhà ở.

Sau khi được các cấp thông qua, những gia đình tại khu C được hướng dẫn làm việc trực tiếp với Công ty Quản lý và khai thác đất Đà Nẵng để nộp tiền sử dụng đất ở. Riêng phần diện tích đất công cộng tương đương 3,181 tỉ đồng, trách nhiệm phải chia đều cho 64 gia đình tại đây, khoảng 49 triệu đồng/gia đình, Bộ tham mưu không chi trả khoản tiền này.

Đơn vị vừa làm việc với UBND TP Đà Nẵng xem xét giảm số tiền này vì các gia đình này phần lớn là cán bộ quân nhân trẻ, đời sống còn nhiều khó khăn.
(Theo TTO)


Nguồn: batdongsan.com.vn

Có được bồi thường thiệt hại do công trình xây dựng gây ra

09:30 |

Hỏi: Nhà tôi đang xây dựng thì nhà bên cạnh khiếu nại lên xã, cho rằng nhà tôi xây dựng làm ảnh hưởng, nứt tường nhà của họ. UBND xã đã tổ chức hòa giải, hai nhà đều có giấy chủ quyền, nhưng việc hòa giải thương lượng hai bên không thống nhất.

Lý do nhà bên kia đưa ra số tiền bồi thường quá cao và UBND xã yêu cầu nhà tôi ngưng thi công xây dựng.

Sau đó, UBND xã tổ chức mời lên hòa giải lần 2. Tôi có yêu cầu mời công ty kiểm định xây dựng, kiểm định xem có phải do nhà tôi xây dựng làm ảnh hưởng nhà bên cạnh, nhưng phía bên kia không đồng ý. Lần hòa giải thứ 2 vẫn không thành và UBND xã đề nghị một trong hai gửi đơn ra tòa án giải quyết.

Xin hỏi, UBND xã hòa giải như vậy có đúng với quy định? Tại sao tôi yêu cầu kiểm định thì UBND xã không xem xét, mà yêu cầu phải gửi đơn ra tòa án? Nếu nhà bên kia kéo dài thời gian, không gửi đơn ra tòa án thì nhà tôi vẫn phải ngưng thi công xây dựng? Tôi có thể gửi đơn ra tòa án không?

Mong được tư vấn. Xin cảm ơn. hoang han (hoanghan2002@... )

Trả lời

Ảnh minh họa

Theo quy định của pháp luật thì UBND cấp xã không có chức năng giải quyết tranh chấp mà chỉ có trách nhiệm hòa giải đối với tranh chấp của bạn nói riêng và các loại tranh chấp khác nói chung theo quy định của pháp luật.

Trường hợp không thể tổ chức hòa giải thành thì tùy vào thẩm quyền giải quyết tranh chấp mà UBND cấp xã sẽ đề nghị một trong các bên tranh chấp gửi đơn khởi kiện đến UBND cấp huyện hoặc tòa án nhân dân có thẩm quyền.

Đối với trường hợp của bạn, nếu không thể thương lượng được với hộ gia đình bên cạnh về giải quyết tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng từ thi công xây dựng dẫn tới việc thi công công trình xây dựng bị đình trệ thì bạn vẫn có quyền chủ động nộp đơn khởi kiện đến tòa án nhân dân có thẩm quyền để được giải quyết.

Trong nội dung đơn, bạn có thể đề cập đến việc đã yêu cầu một tổ chức giám định để kiểm định chấp lượng thi công và hậu quả gây ra (nếu có) (theo đơn khiếu nại lên UBND cấp xã của họ) để làm cơ sở giải quyết việc bồi thường nhưng hộ gia đình bên cạnh không đồng ý thực hiện.

Đồng thời có thể yêu cầu tòa án giải quyết buộc hộ gia đình bên cạnh bồi thường mọi chi phí thiệt hại phát sinh từ việc công trình xây dựng bị đình chỉ thi công kể từ thời điểm hộ gia đình bên cạnh không hợp tác trong việc yêu cầu một tổ chức có chức năng giám định công trình xây dựng để làm cơ sở giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Luật sư Nguyễn Văn Hậu
(Theo TTO)


Nguồn: batdongsan.com.vn